Bối cảnh Xe chiến đấu bộ binh

BMP-1 của Liên Xô

Những xe BMP giống như những xe bọc thép chở quân (tiếng Nga: BTR, tiếng Anh: APC), nó được thiết kế để vận chuyển từ 5 đến 10 lính bộ binh có trang bị đầy đủ. Nhưng BMP có điểm khác biệt với những BTR (còn gọi là "battle taxis") ở chỗ nó được trang bị vũ khí mạnh hơn, cho phép BMP hỗ trợ hỏa lực trực tiếp trong một cuộc tấn công cho các đơn vị bộ binh, ngoài ra trên thân xe BMP còn có các lỗ châu mai cho phép bộ binh sử dụng vũ khí cá nhân của mình chiến đấu từ bên trong xe, và quan trọng hơn là BMP có lớp giáp được nâng cấp nhằm tăng khả năng sống sót của xe. Các xe BMP thường được trang bị vũ khí điển hình là một khẩu pháo tự động có cỡ nòng từ 20 đến 40 mm, các súng máy cỡ 7.62 mm và có thể mang thêm tên lửa điều khiển chống tăng hay tên lửa đất đối không. Những BMP thông thường là xe bánh xích, nhưng một số xe bánh lốp cũng được gọi là BMP. Những BMP nói chung có giáp mỏng và vũ khí yếu hơn so với các xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT), nhưng BMP khi tham chiến có thể mang theo được các tên lửa chống tăng, như Spigot của Liên Xô, TOW của NATO.

Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới đưa ra khái niệm về BMP, những mẫu thiết kế về BMP đầu tiên của Liên Xô xuất hiện trong thập niên 1960, như BMP-1 năm 1966, BMD-1 năm 1969, và các loại BMP này đã được xuất khẩu rộng rãi cho các quốc gia đồng minh của Liên Xô, trong đó có Việt Nam, trong Chiến tranh Việt Nam, những xe BMP đã tham gia trong các chiến dịch lớn của miền Bắc trên chiến trường[cần dẫn nguồn]. Trong khi Liên Xô đã sử dụng đại trà những xe BMP để thay thế cho những xe BTR trong các đơn vị bộ binh cơ giới, thì Mỹ vẫn chưa có khái niệm về BMP (IFV), họ đã hiểu sai khái niệm về BMP, và đã sử dụng các BTR (APC) để làm thay công việc cho BMP trên chiến trường. Điển hình như loại M113. M113 là một loại xe bọc thép chở quân, nhưng lại được người Mỹ sử dụng thay chức năng của xe chiến đấu bộ binh, nó có giáp mỏng và trang bị yếu nên dễ bị bộ binh tiêu diệt bằng các loại vũ khí như súng đại liên, lựu đạn, mìn.

M113 được sử dụng như IFV vào đầu thập niên 1960 bởi quân đội Việt Nam Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam, trong trận Ấp Bắc M113 đã được đưa vào chiến đấu, nhưng nó đã không đạt được hiệu quả như người Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa mong muốn, 3 xe M113 đã bị phá hủy[1], một số xe khác bị hư hại. Điều đáng nói ở đây là những xe M113 này không phải bị hư hại từ vũ khí chống tăng, mà những hư hại do mìn, súng đại liên, lựu đạn của lực lượng du kích Ấp Bắc và bộ đội địa phương Mỹ Tho gây ra. Sau trận Ấp Bắc, người Mỹ đã phải nâng cấp xe M113 với súng máy, giáp bảo vệ, tấm chắn cho xạ thủ.

Warrior IFV của Quân đội Anh

Phương Tây đã rất ngạc nhiên khi Liên Xô tổ chức diễu binh có sự tham gia của mẫu thiếu kế BMP đầu tiên của mình là BMP-1 vào năm 1967. BMP được trang bị với 1 súng nòng trơn 73 mm và tên lửa điều khiển chống tăng (ATGM) AT-3 Sagger. Phần mũi được thiết kế dốc và bọc giáp, bảo vệ xe trước súng máy cỡ.50 tiêu chuẩn NATO với góc bắn trực diện là 60°, trong khi súng nòng trơn và ATGM có thể tiêu diệt các APC của NATO và thậm chí cả xe tăng chiến đấu chủ lực.

Từ khái niệm BMP ban đầu do Liên Xô đưa ra [cần dẫn nguồn], quân đội các quốc gia trên thế giới đã bắt đầu phát triển hay chấp nhận sử dụng khái niệm về BMP (IFV). Ví dụ như MarderPuma của Đức, LAV III của Canada, Warrior của Anh, M2 Bradley của Mỹ, Pizarro của Tây Ban Nha, Dardo của Ý, Abhay của Ấn Độ, Ratel của Nam Phi, AMX-10P của Pháp, Combat Vehicle 90 của Thụy Điển, YPR-765 AIFV của Hà Lan.

Trong các cuộc chiến tranh Xô viết ở Afghanistan, Chechnya, các xe thiết giáp như xe chiến đấu bộ binh BMP, xe bọc thép chở quân (BTR) đều bộc lộ nhược điểm lớn về khả năng sống còn, không an toàn cho kíp xe và bộ binh ngồi trong xe khi bị vấp mìn và trúng đạn, nên từ chiến tranh Afghanistan đến nay, bộ binh Liên Xô/Nga buộc phải ngồi trên nóc xe để cơ động chứ không dám ngồi trong xe.[2] Cũng như M-113 cũng gặp rắc rối với khả năng sống sót của mình do lớp vỏ bảo vệ quá yếu có thể gây ra nhiều thương vong và cháy rụi. Trong chiến tranh Việt Nam nhiều lính Hoa Kỳ đã ngồi ngoài xe hoặc chạy bên cạnh chúng, trong cuộc vây hãm Beirut các xe này dừng lại cách vùng chiến sự hơn 100m do sợ nếu bị RPG bắn thì chắc chắn sẽ chết cháy do nhôm cũng là chất cháy cực mạnh nếu đạt nhiệt độ cần thiết và các binh lính trong xe sẽ biết tại sao nhôm được dùng làm một phần nhiên liệu tên lửa trong một cuộc chiến khốc liệt[3]. Cũng như loại Stryker gặp trường hợp tương tự trong chiến tranh Iraq vì nó hầu như cực kỳ dễ bị diệt bởi tên lửa chống tăng và bom tự tạo do... không được thiết kế để chống lại vũ khí mà quân nổi dậy sử dụng, thiệt hại của loại này tại Iraq được giữ bí mật nhưng có trường hợp một đơn vị quân Hoa Kỳ bị mất 5 xe trong khoảng ít hơn một tuần. Việc này dẫn đến việc phát triển M2 Bradley nhưng nó lại bị đánh giá là quá nặng để có thể chuyên chở, chi phí vận hành và bảo dưỡng quá đắt, cao đến gần 3m nhưng chỉ chở được 6 người và được biết với tên "quan tài cài đầy thuốc nổ" do nếu bị đánh trúng thì lượng đạn dược bên trong sẽ tạo ra một vụ nổ cực lớn cùng mọi người bên trong vì kích thước lớn để dễ bị nhắm nhưng lớp giáp quá yếu cho các loại vũ khí chống tăng hiện tại[4].

Xe chiến đấu bộ binh hạng nặng

Để đối phó với chiến tranh đường phố và các thiết bị gây nổ chống xe cơ giới, bao gồm việc sử dụng rộng rãi các thiết bị nổ tự tạo, đã xuất hiện một số xe BMP hạng nặng (tiếng Anh: HIFV) được trang bị lớp giáp bảo vệ dày như xe tăng, dựa trên những kinh nghiệm phong phú của Lực lượng Phòng vệ Israel (dù loại xe Kangaroo của Canada trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã được gọi là HIFV). Xe tăng Merkava của Israel có khả năng mang theo một vài lính bộ binh hay đạn dược bổ sung ở phía sau của xe[5], và xe Achzarit là mẫu xe chở bộ binh dựa trên khung của xe tăng T-55 được sửa đổi để trở thành xe bọc thép chở quân hạng nặng. Một ví dụ mới hơn là loại xe BTR-TBMPT của Nga, lần lượt dựa trên khung của xe tăng T-55 và T-72. Các xe BMT-72 và BTMP-84 của Ukraina cũng dựa trên khung của xe tăng chủ lực T-72T-84, đặc biệt BMT-72 và BTMP-84 vẫn giữ lại khẩu pháo 125 mm của xe tăng.

BMPT tại RAE 2009

Liên quan